Phát hiện sớm trẻ bị viêm màng não trong mùa dịch hè. Cảnh báo: trẻ vẫn mắc bệnh mặc dù đã tiêm vắc xin

Vào những ngày hè đỉnh điểm như tháng 6, 7 nắng nóng lên 40 độ C trẻ dễ có nguy cơ mắc bệnh. Đặc biệt, tháng 6 đến tháng 8 sẽ là mùa của bệnh viêm não Nhật Bản ở phía Bắc. Nếu gọi sởi là “bão” thì viêm não Nhật Bản là “siêu bão”, do mức độ nặng, tỉ lệ tử vong rất cao, ước tính của thế giới là 20-30%. Nhiều mẹ chủ quan khi thấy con sốt mà dùng các biện pháp chữa trị tại nhà. Một số trường hợp bệnh của trẻ không tiến triển tốt mới tá hỏa đưa bé đi viện và gây nhiều biến chứng nguy hiểm, khó lường.

THẾ NÀO LÀ BỆNH VIÊM MÀNG NÃO?

Viêm màng não mủ, hay viêm màng não nhiễm khuẩn, là hiện tượng viêm của các màng bao bọc quanh hệ thần kinh trung ương (não và tủy sống) do sự hiện diện của các vi khuẩn gây bệnh trong khoang dịch não tủy. Sự viêm nhiễm này sẽ gây nên tình trạng sinh mủ bên trong hệ thống thần kinh trung ương. Các tình trạng viêm nhiễm hệ thần kinh trung ương khác là viêm não do virus, viêm màng não do nấm, viêm màng não do hóa chất hoặc do xâm nhập của các tế bào ung thư…

Nguyên nhân gây bệnh viêm màng não ở trẻ nhỏ

Nguyên nhân gây bệnh khác nhau giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Ở các quốc gia có nền y học phát triển, việc chủng ngừa Hemophilus influenzae đã được thực hiện từ vài chục năm nay nên tỉ lệ gây bệnh do tác nhân này giảm xuống rõ rệt, đứng sau phế cầu, não mô cầu.

Tuy nhiên ở các nước nghèo như Việt Nam việc tiêm chủng ngừa Hemophilus influenzae chưa được rộng rãi nên tác nhân này vẫn chiếm hàng đầu, sau đó là phế cầu, não mô cầu, tụ cầu khuẩn,vi khuẩn thương hàn. Ở lứa tuổi sơ sinh và trẻ nhỏ (thường dưới 3 tháng) thì nguyên nhân không khác nhau ở các nước: E. coli, liên cầu khuẩn nhóm B, Listeria monocytogen. Các vi khuẩn này có thể từ vị trí tai mũi họng, phổi đi theo đường máu vào trong não hoặc đi theo đường kế cận từ các ổ nhiễm trùng cạnh màng não hoặc cũng có thể đi trực tiếp vào não khi bị chấn thương nứt vỡ sọ…

Phế cầu khuẩn

Thường được gọi tắt là phế cầu (Streptococus pneumoniae) là nguyên nhân gây viêm màng não mủ hàng đầu ở lứa tuổi ngoài sơ sinh tại các nước phát triển (có chủng ngừa rộng rãi Hemophilus influenzae tuýp b). Tỷ lệ viêm nàng não mủ do phế cầu vào khoảng 1 – 3/1000 dân. Nhiễm trùng có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi nào. Những tháng giữa mùa đông có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất trong năm.

Phế cầu gây nhiễm trùng huyết và viêm màng não mủ thường xuất phát từ nơi cư trú là niêm mạc hầu họng. Trẻ em sau khi sinh sẽ bị lây vi khuẩn này từ các thành viên trong gia đình. Độc lực của vi khuẩn phụ thuộc vào các tuýp huyết thanh khác nhau. Các yếu tố nguy cơ của viêm màng não mủ do phế cầu là viêm tai giữa, viêm xoang, viêm phổi, rò rỉ dịch não tủy qua tai hoặc qua mũi, bệnh nhân cắt lách, nhiễm HIV, bệnh ghép chống chủ sau ghép tủy xương.

Xem thêm: Vắc xin phế cầu khuẩn

Hemophilus influenzae tuýp B

Hemophilus influenzae tuýp B là một vi khuẩn gram âm hình que. Hình dạng có thể thay đổi từ dạng cầu – trực khuẩn đến hình que dài và hơi cong. Viêm màng não mủ do Hemophilus influenzae tuýp b xảy ra chủ yếu ở trẻ em không được chủng ngừa chống lại tác nhân này. Khoảng 80% các trường hợp viêm màng não mủ doHemophilus influenzae tuýp b xảy ra ở trẻ từ 1 tháng đến 3 tuổi, là lứa tuổi mà hệ thần kinh phát triển nhanh nhất. Sau ba tuổi, hầu hết trẻ em có miễn dịch mắc phải chống lại Polyribophosphate của vách vi khuẩn do đó trẻ được bảo vệ.

Phương thức truyền bệnh là từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp bởi các hạt nhỏ của chất tiết đường hô hấp. Thời gian ủ bệnh thường ngắn hơn 10 ngày. Tỷ lệ tử vong do bệnh còn khá cao. tử vong thường xảy ra trong những ngày đầu tiên của bệnh.

Sự đề kháng với ampicillin được truyền qua plasmid ngày càng gia tăng trong cộng đồng. Khả năng đề kháng này của vi khuẩn đối với ampicillin là do chúng sản xuất được các enzyme beta-lactamase có khả năng phá vỡ vòng beta-lactam của các thuốc kháng sinh thuộc họ này. Tỷ lệ đề kháng với ampicillin vào khoảng 30-50%. Tuy nhiên trên thực tế lâm sàng thì Hemophilus influenzae tuýp b có tính đề kháng rất cao, đôi khi có khả năng đề kháng nhiều loại kháng sinh khác nhau.

Não mô cầu

Não mô cầu (Neisseria meningitidis) là loại cầu khuẩn Gram âm có hình hạt đậu và là vi khuẩn nội bào. Não mô cầu được định tuýp huyết thanh dựa vào polysaccharide của vách tế bào vi khuẩn. Các tuýp huyết thanh thường gặp và có vai trò gây bệnh là A, B, C, D, X, Y, Z, 29E và W135. Một số tuýp, đặc biệt là B, C, Y và W135 gây nên 15 đến 25% các trường hợp viêm màng não mủ ở trẻ em. Các chủng thuộc nhóm a cũng đã từng là nguyên nhân gây nên các vụ dịch khắp nơi trên thế giới và đặc biệt là trong các trại lính (trong Thế chiến thứ hai). Vi khuẩn thường định cư vùng hầu họng và thường không gây nên triệu chứng gì. Lây truyền chủ yếu do tiếp xúc người với người thông qua các hạt chất tiết nhỏ của đường hô hấp. Thời gian ủ bệnh thường ngắn hơn 4 ngày, thay đổi từ 1 ngày đến 7 ngày. Không phải tất cả các trường hợp có vi khuẩn đường hầu họng đều bị bệnh.

Hầu hết các trường hợp bệnh xảy ra ở lứa tuổi 6 đến 12 tháng. Thiếu niên cũng bị bệnh nhưng thấp hơn. Biểu hiện đặc trưng của bệnh là sự xuất hiện các ban xuất huyết hoại tử hình sao gọi là tử ban. Tỷ lệ tử vong rất cao trong thể tiến triển tối cấp (thể sét đánh). Trong thể này, tử vong thường xảy ra trong vòng 24 giờ sau khi nhập viện. Tiên lượng bệnh rất nặng nề nếu trẻ nhập viện với các dấu hiệu: hạ huyết áp, sốc, giảm bạch cầu trung tính, tuổi rất nhỏ hoặc người già, tử ban lan nhanh trong vòng 12 giờ trước đó, bệnh đông máu rải rác trong lòng mạch, nhiễm toan, sự hiện diện của vi khuẩn trong các tế bào bạch cầu máu ngoại biên, tốc độ lắng máukhông tăng, protein C phản ứng (CRP) không cao, tác nhân gây bệnh thuộc tuýp C, dịch não tủy không biến đổi hoặc ít biến đổi, hôn mê.

Tuýp C cũng là tuýp gây nên tỷ lệ tử vong cao nhất đồng thời cũng là nhóm gây nên biến chứng hoại tử chi thường gặp nhất. Tuy nhiên nếu được điều trị thoát sốc thì sau khi khỏi bệnh, trẻ rất ít bị biến chứng lâu dài.

Escherichia coli

Là một trực khuẩn gram âm điển hình, cư trú trong phần thấp của hệ tiêu hóa các động vật máu nóng như chim và động vật có vú. E. coli thường gây viêm màng não mủ ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, ít gặp ở trẻ lớn và người lớn. Viêm màng não mủ do E. coli ở trẻ sơ sinh là một bệnh lý nặng vì thường nằm trong bối cảnh nhiễm trùng huyết.

Listeria monocytogen

Listeria monocytogen là một trực khuẩn Gram dương sống ký sinh nội bào. Trực khuẩn này tương đối đề kháng với các thay đổi của môi trường. L. monocytogen cũng hiện diện nhiều trong đất và nước do đó có khả năng gây nhiễm bẩn thực phẩm và gây ngộ độc. Thịt, sữa và các thực phẩm tươi sống khác thường mang vi khuẩn này. Những bệnh nhân suy giảm miễn dịch như người già, trẻ sơ sinh, bệnh nhân điều trị thuốc ức chế miễn dịch, AIDS thường có nguy cơ bị bệnh. Viêm màng não mủ sơ sinh do tác nhân này thường nằm trong bối cảnh nhiễm trùng huyết nặng. Các dấu hiệu nghi ngờ trên lâm sàng là: mẹ thường có sốt, sinh non không rõ nguyên nhân, nhau thai có tổn thương hạt…

Tác nhân này đề kháng tự nhiên với các kháng sinh cephalosporine do đó kháng sinh này không bao giờ được dùng đơn độc trong điều trị nhiễm trùng sơ sinh (bao gồm cả viêm màng não mủ) khi chưa phát hiện được vi khuẩn.

Triệu chứng và biểu hiện

Tùy theo từng thể bệnh mà có những triệu chứng khác nhau.

Thể viêm đường hô hấp trên (mũi, họng): Sốt cao đột ngột 38-39oC, đau đầu, rát họng, sổ mũi nước trong hoặc mủ. Sốt kéo dài từ 5-7 ngày. Khám thấy amidal, vòm hầu, niêm mạc mũi xung huyết, phù nề mạnh. Bệnh lành tính chỉ kéo dài 5-7 ngày, thể này hay nhầm lẫn với một số bệnh viêm mũi, họng do vi khuẩn phế cầu, haemophilus influenzae hoặc M. catarrhalis gây ra. Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh sẽ khỏi.

Thể nhiễm khuẩn huyết: Có thể là nhiễm khuẩn huyết đơn thuần hoặc có thể là kịch phát.

Thể nhiễm khuẩn huyết đơn thuần do vi khuẩn não mô cầu, sốt cao 40-41oC, liên tục hoặc dao động, kèm theo có rét run, đau đầu, mỏi các cơ, khớp không khu trú một nơi nhất định, sau sốt là xuất hiện ngoại ban. Triệu chứng ngoại ban là dấu hiệu rất có giá trị trong chẩn đoán. Có thể là ban xuất huyết đơn thuần hay ban xuất huyết kèm theo có hoại tử. Sau khi có sốt từ 5 đến 15 giờ thì ban xuất hiện. Ban có thể nổi toàn thân nhưng hay gặp là nơi tận cùng của các đầu ngón tay, chân. Ban kích thước to, nhỏ không đồng đều, ban mọc không cùng một đợt (không cùng lứa tuổi) trong cùng một diện tích da. Bệnh càng nặng thì các ban trở thành hoại tử còn có thể thấy gan, lách to ra. Huyết áp tụt trong các trường hợp bị sốc.

Thể nhiễm khuẩn huyết kịch phát do não mô cầu, vừa biểu hiện nhiễm khuẩn huyết vừa bị sốc do nhiễm độc tố của vi khuẩn não mô cầu: huyết áp tụt, mạch nhanh, nhỏ khó bắt, nhiệt độ thấp (dưới 36oC), thiểu niệu hoặc vô niệu. Ban xuất hiện sớm kèm theo hoại tử nặng, đôi khi có xuất huyết nội tạng. Nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời thì bệnh trở nên trầm trọng và tiên lượng rất xấu.

Thể viêm màng não đơn thuần, điển hình: Bệnh xuất hiện sau các thể viêm mũi, họng hoặc thể nhiễm khuẩn huyết hoặc xảy ra ngay từ đầu gồm có 2 hội chứng điển hình sau đây:

– Hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc: Sốt cao đột ngột 39-40oC, sốt liên tục hoặc sốt theo kiểu 2 pha. Mệt mỏi, đau đầu nhiều.

– Hội chứng màng não: Thường xuất hiện sớm và khá đầy đủ các triệu chứng như: đau đầu dữ dội, rối loạn tiêu hóa (nôn vọt, táo bón). Bệnh nhân nằm tư thế cò súng, có các dấu hiệu cứng gáy, Kernig, vạch màng não, sợ ánh sáng nên hay nằm quay mặt vào tường.

Ngoài thể viêm màng não đơn thuần, điển hình còn gặp thể viêm màng não – não phù nề kịch phát. Biểu hiện là sốt cao, kích thích, vật vã, co giật và hôn mê. Mạch chậm, huyết áp dao động, rối loạn hô hấp nặng. Trong trường hợp này nếu không xử trí kịp thời thì tiên lượng rất xấu.

Cần chọc dịch não tủy: áp lực tăng cao trong thể viêm màng não điển hình, dịch não tuỷ đục (trường hợp nhẹ thì não tủy trong), protein tăng nhưng đường glucose và muối NaCl giảm. Bằng phương pháp nhuộm đơn thấy có trên 3 tế bào bạch cầu trong một vi trường (thường tế bào bạch cầu tăng rất cao). nhuộm Gram thấy có song cầu khuẩn hình hạt cà phê (Gram âm), có cả trong và ngoài tế bào bạch cầu. Nếu có điều kiện nuôi cấy vi khuẩn, xác định vi khuẩn não mô cầu bằng tính chất sinh học và ngưng kết kháng huyết thanh đặc hiệu của não mô cầu.

Phòng và điều trị

Để tránh mắc bệnh viêm màng não mủ do não mô cầu, cần vệ sinh cá nhân, nhất là vệ sinh họng, miệng hàng ngày. Cần cách ly bệnh nhân và tránh tiếp xúc với người bị bệnh vì vi khuẩn có thể lây qua các giọt nước bọt, chất nhầy họng do bệnh nhân ho, nói bắn ra không khí xung quanh người lành trực tiếp hít phải. Hiện nay đã có vắcxin đặc hiệu, trẻ em dưới 36 tháng cần được tiêm loại vắcxin này để gây miễn dịch chủ động.

Khi nhiễm não mô cầu cần phân lập vi khuẩn và tiến hành thử test nhạy cảm với kháng sinh, dựa vào kết quả kháng sinh đồ để chọn kháng sinh thích hợp điều trị là tốt nhất. Ở cơ sở nào chưa có điều kiện phân lập vi khuẩn và làm kháng sinh đồ thì dựa vào phác đồ để điều trị.

 

PHÁT HIỆN SỚM BỆNH VIÊM MÀNG NÃO MỦ Ở TRẺ SƠ SINH, TRẺ DƯỚI 12 THÁNG TUỔI

Bệnh viêm màng não thường xảy ra trong mùa nắng nóng hay lúc chuyển mùa vì có nhiều trẻ mắc bệnh đường hô hấp và là thời điểm thuận lợi để một số vi trùng và siêu vi trùng xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương gây viêm màng não.

PGS.BS. Lê Thị Minh Hương- PGĐ Bệnh viện Nhi Trung Ương Nhận định: viêm não thường để lại di chứng nặng nề cho người bệnh. Vì vậy, bên cạnh việc chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời còn cần nâng cao công tác chăm sóc điều trị các biến chứng sau viêm não cho trẻ mắc bệnh tại các tuyến. Đây là loại bệnh nặng cần được điều trị cấp cứu, nếu không có thể gây tử vong hay để lại những di chứng như điếc, mù, động kinh, yếu liệt tay chân hoặc chậm phát triển tâm thần vận động,…

Viêm não (encephalitis), một tình trạng viêm của nhu mô não, biểu hiện bằng sự rối loạn chức năng thần kinh-tâm thần khu trú hoặc lan tỏa. Trên phương diện dịch tễ học cũng như sinh lý bệnh, viêm não được phân biệt với viêm màng não thông qua khám xét lâm sàng và cận lâm sàng mặc dù hai thể bệnh này điều có những triệu chứng của tình trạng viêm màng não như sợ ánh sáng, nhức đầu hay cứng cổ. Viêm não hiểu theo nghĩa đen thì đó là “tình trạng viêm của não”, nghĩa là có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên thuật ngữ viêm não thường được hiểu là tình trạng viêm não gây nên do virus. Đây là một tình trạng bệnh lý nặng nề đe dọa tính mạng bệnh nhân.

Viêm não có thể biểu hiện dưới hai thể khác nhau: thể tiên phát và thể thứ phát. Viêm não tiên phát thường nặng nề hơn trong khi viêm não thứ phát thường gặp hơn. Tuy nhiên do thể thứ phát thường nhẹ nhàng hơn nên trong số các trường hợp nhập viện, viêm não tiên phát chiếm đa số.

Do đó để phát hiện dấu hiệu trẻ mắc viêm màng não, ngay khi trẻ có biểu hiện bị sốt cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ cần chú ý các dấu hiệu quan trọng như sau:

– Biểu hiện của viêm màng não thường bắt đầu với các biểu hiện sốt, chán ăn, bú kém, rối loạn tiêu hóa như tiêu chảy hoặc nôn, ho, chảy nước mũi… rất dễ nhầm lẫn với viêm nhiễm đường hô hấp thông thường, sốt virut,… Do đó cần phải cặp nhiệt độ cho trẻ thường xuyên. Nếu trẻ sốt cao trên 38,5oC cần lau mát và cho trẻ uống thuốc hạ sốt theo đúng chỉ dẫn liều lượng và cân nặng. Theo dõi sát tình trạng bệnh của trẻ. Chú ý các dấu hiệu gợi ý viêm màng não như:

viem mang nao khien tre bo bu, bieng an, bieng choi, ngu nhieu, sot cao, li bi

– Thể bệnh viêm màng não điển hình thường xuất hiện nhanh, với các dấu hiệu: sốt cao 39 – 40oC, bệnh nhi bị kích thích, vật vã, co giật, động kinh cùng với biểu hiện tâm thần do nhiễm khuẩn như đau đầu dữ dội, nôn vọt. Bệnh nhi thường nằm theo tư thế cò súng (nằm nghiêng, đầu gối co lên), có dấu hiệu cứng gáy, dấu hiệu Kernig, dấu hiệu Brudzinski và vạch màng não dương tính. Ở trẻ nhỏ thì thấy thóp phồng. Bệnh nhi thường sợ ánh sáng nên hay nằm quay mặt vào tường. Có thể xuất hiện ban xuất huyết ngoài da, đặc điểm của ban xuất huyết do não mô cầu là có kích thước to nhỏ khác nhau, đôi khi có kèm theo hoại tử.

– Co giật: Có thể ở tay, chân, mắt, miệng hoặc toàn thân. Một số trẻ co giật đơn thuần do sốt cao hoặc có một số trẻ do rối loạn điện giải, nhưng cũng cần phải theo dõi xem trẻ có bị viêm màng não không.

– Rối loạn ý thức: Lúc đầu trẻ trong tình trạng dễ bị kích động, sau đó có thể ngủ li bì, lờ đờ, hôn mê. Trẻ thường kêu đau đầu, nôn hoặc có biểu hiện liệt mặt, liệt hoặc giảm vận động ở chân, tay hoặc nửa người.

viem mang nao gay dau dau o tre nho

– Đối với trẻ sơ sinh: Các dấu hiệu ban đầu thường không đặc hiệu và rất khó phân biệt với các bệnh nhiễm trùng khác ở trẻ sơ sinh, có thể không sốt hoặc có sốt và có kèm theo một trong các triệu chứng trên.

– Bên cạnh các triệu chứng liên quan đến thần kinh, tùy theo nguyên nhân gây bệnh mà bệnh nhân có các triệu chứng khác kèm theo. Như viêm não do enterovirus 71 thường có kèm theo các bóng nước ở lòng bàn tay, bàn chân, mông, gối và có những vết loét trong miệng.

– Nếu bệnh do vi trùng não mô cầu gây ra thì có thể xuất hiện các chấm hay mảng xuất huyết hoại tử ở da, và khi các mảng xuất huyết này lan nhanh thì đó là dấu hiệu gợi ý bệnh đã rất nặng.

Để phát hiện sớm bệnh lý não – màng não, tốt nhất là nên theo dõi sát khi thấy trẻ sốt, nôn ói, đau đầu. Nếu phát hiện bóng nước vùng lòng bàn tay bàn chân, hay các chấm, mảng xuất huyết hoại tử thì nên khám các thầy thuốc chuyên khoa.

Hoặc khi thấy có dấu hiệu thần kinh như lừ đừ, kích thích vật vã, run chi, co giật và hôn mê thì đưa trẻ đến ngay bệnh viện.  Cần lưu ý là các  triệu chứng trên sẽ xuất hiện ngày càng nặng hơn.

–> Tóm tắt các triệu chứng ở trẻ bị viêm màng não

Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ

Các triệu chứng không điển hình và thường biểu hiện một tình trạng bệnh lý toàn thân nặng. Các dấu hiệu bao gồm:

  • Bú kém
  • Suy kiệt
  • Tăng kích thích
  • Cơn ngưng thở
  • Quấy khóc, không yên tĩnh
  • Sốt hoặc hạ thân nhiệt
  • Vô cảm, thờ ơ ngoại cảnh
  • Co giật
  • Vàng da
  • Thóp phồng
  • Da xanh tái
  • Biểu hiện sốc
  • Giảm trương lực cơ
  • Khóc thét
  • Hạ đường huyết
  • Nhiễm toan chuyển hóa khó điều trị

Ở trẻ lớn hơn

Biểu hiện bệnh ở nhóm tuổi này tương đối điển hình hơn với các dấu hiệu như sau:

  • Sốt
  • Dấu nhiễm trùng, nhiễm độc
  • Cứng cổ
  • Tư thế ưỡn người
  • Thóp phồng (nếu thóp chưa đóng kín)
  • Co giật
  • Sợ ánh sáng
  • Nhức đầu
  • Suy giảm ý thức
  • Tăng kích thích
  • Mệt mỏi suy nhược
  • Chán ăn
  • Buồn nôn và nôn vọt
  • Hôn mê

Điều trị bệnh viêm màng não

Điều trị viêm màng não mủ cần tiến hành sớm, theo dõi chặt chẽ để thay đổi điều trị thích hợp và xử trí nhanh chóng các biến chứng. Điều trị gồm có hai phần chính: điều trị đặc hiệu và điều trị nâng đỡ

 – Điều trị đặc hiệu là điều trị bằng kháng sinh nhằm tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh. Điều trị này thường tiến hành ngay sau khi chọc dịch não tủy nếu nghi ngờ viêm màng não mủ. Đôi khi tình trạng bệnh nhân chưa cho phép chọc dịch não tủy thì việc điều trị bằng kháng sinh vẫn có thể tiến hành. Kháng sinh ban đầu khi chưa có xét nghiệm kháng sinh đồ thường được chọn dựa vào tần suất gây bệnh của các loại vi khuẩn, khả năng thấm qua hàng rào mạch máu – não, ít gây các tác dụng không mong muốn (hay tác dụng phụ). Kháng sinh ban đầu cho trẻ lớn thường chọn là một cephalosporin thế hệ thứ ba như Cefotaxime (Claforan) với liều từ 200–300 mg/Kg/ngày tiêm vào tĩnh mạch chia 3 đến 4 lần, hay một ceftriaxon (như Rocephine, Megion) liều 100–150 mg/Kg/ngày tiêm vào tĩnh mạch chia hai lần. Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ không bao giờ được dùng cephalosporin thế hệ thứ ba đơn độc mà thường kết hợp thêm ampicillin và/hoặc gentamycin. Sau khi có kết quả kháng sinh đồ thì điều trị theo kháng sinh đồ. Điều trị thường kéo dài từ 10 ngày đến 3 tuần tùy theo loại vi khuẩn.

 – Điều trị nâng đỡ, hay còn gọi điều trị hỗ trợ, cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong thành công của điều trị. Điều trị này bao gồm bảo đảm thông khí và cung cấp đủ ô xy cũng như thải khí carbonic, hạ sốt, chống phù não, kiểm soát co giật, cân bằng nước-điện giải, phát hiện hội chứng tăng tiết ADH bất thường, đảm bảo dinh dưỡng, chống vảy mục, vật lý trị liệu…

Biện pháp phòng ngừa bệnh viêm màng não 

Để phòng ngừa bệnh lý não – màng não cần có nhiều biện pháp,  tùy theo mỗi  loại bệnh. Với bệnh viêm não Nhật Bản, cách tốt nhất là nên diệt muỗi, ngủ mùng. Với viêm não do siêu vi trùng đường ruột phải bảo đảm vệ sinh khi ăn uống, đặc biệt là rửa tay trước khi ăn.

Ngoài ra việc chích văcxin cũng rất quan trọng, nhưng một văcxin chỉ phòng được một bệnh não – màng não mà thôi. Hiện nay ở VN có thuốc chủng ngừa viêm não Nhật Bản, ngừa viêm màng não do HIB, đây là hai văcxin có nhiều hiệu quả phòng ngừa.

Riêng bệnh viêm màng não do não mô cầu thì chỉ có văcxin phòng type A và C và hiệu quả cũng không nhiều nên để phòng ngừa bệnh này, điều quan trọng nhất là vệ sinh môi trường và phát hiện sớm trường hợp bệnh đầu tiên để chủ động phòng ngừa cho người xung quanh bằng cách cho uống thuốc.

Theo BS TRƯƠNG HỮU KHANH (Trưởng khoa Nhiễm – Bệnh viện Nhi Đồng I)

Thông tin dịch bệnh: Nhiều trẻ viêm màng não nhập viện 

Cập nhật lúc 14h37′ ngày 30/06/2015

Gia tăng bệnh viêm não ở trẻ em

trẻ bị viêm màng não

Ngày 22/5, thấy con gái sốt, gia đình đưa bé Khánh Huyền, 9 tuổi, Định Công (Hà Nội) đến khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai khám. Sau đó bé ngủ li bì, tỉnh lại kêu đau đầu. Vì thế, bác sĩ tiến hành chọc dịch não tủy, kết quả bé bị viêm màng não virus. Sau 4 ngày được điều trị, bé đã giảm nôn, đau đầu.

Bác sĩ Nguyễn Đông Hải, Phó khoa Nhi (Bệnh viện Bạch Mai) khuyến cáo, từ đầu mùa đến nay khoa tiếp nhận khoảng 20 ca bệnh nhi được chẩn đoán viêm màng não, viêm não do virus. Dịp cuối tuần vừa qua, lượng bệnh nhân đến khám vì đau đầu, nôn chớ tăng mạnh.

“Những triệu chứng như đau đầu, buồn nôn, sốt cao rất dễ nhầm lẫn với những bệnh lý viêm đường hô hấp, sốt virus khác. Vì vậy, việc theo dõi trẻ là rất quan trọng. Nếu nghi ngờ, bác sĩ sẽ chỉ định chọc dịch não tủy để xác định bệnh nhi có bị viêm não, màng não hay không”, bác sĩ Hải nói.

Viêm não, màng não là một bệnh khá nguy hiểm với trẻ, thậm chí có thể dẫn tới tử vong. Nếu không được phát hiện sớm, điều trị kịp thời, trẻ có thể bị các di chứng về tinh thần, ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ, nhận thức kém. Bệnh đang vào mùa nên cha mẹ cần nâng cao cảnh giác khi thấy con có biểu hiện sốt, nôn, đau đầu.

Theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, nguyên trưởng khoa Nhi (Bệnh viện Bạch Mai), bệnh thường xảy ra đột ngột, có trẻ đang khỏe mạnh bỗng dưng sốt cao, co giật, dẫn đến lờ đờ, hôn mê trong 1-3 ngày. Diễn biến bệnh nặng lên rất nhanh. Bệnh hay gặp ở trẻ trên một tuổi, gặp nhiều nhất ở trẻ 3-15 tuổi.

Tác nhân gây bệnh có thể do virus viêm não Nhật Bản, nhưng hiện ít gặp vì trẻ đã được tiêm phòng khá đầy đủ. Nhóm nguyên nhân thứ hai khá phổ biến là do các virus đường ruột, bệnh diễn biến bất thường, có trường hợp nhẹ, sau một tuần khỏi bệnh mà không để lại di chứng gì. Ngược lại có trẻ lại diễn biến nặng, tử vong rất nhanh. Nhóm virus này hiện chưa có vắcxin phòng. Ngoài ra, trẻ bị viêm não, màng não có thể là biến chứng của các bệnh truyền nhiễm thường gặp như thủy đậu, quai bị…

Biểu hiện lâm sàng ở trẻ rất đa dạng và thay đổi tùy theo lứa tuổi. Bệnh thường khởi phát với các triệu chứng đơn giản như sốt (sốt rất cao, dai dẳng), nôn không giải thích được (không phải do thức ăn, chán ăn, không có tiêu chảy kèm theo), đau đầu có khi hết sốt mà vẫn đau đầu. Tuy nhiên, cũng có trường hợp trẻ có thể nôn nhiều hoặc không đáng kể, thậm chí kèm theo tiêu chảy. Đặc biệt, khi trẻ kêu đau đầu nhiều thì cha mẹ cần nghĩ ngay đến bệnh viêm não, màng não và đưa con đi khám gấp.

Để phòng bệnh, cha mẹ cần đưa con đi tiêm vắcxin viêm não Nhật Bản đầy đủ. Với nhóm virus đường ruột thì cần chú ý đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, chế biến sạch, ăn chín và rửa tay trước khi ăn.

Nắng nóng, nhiều trẻ bị viêm màng não

Ngày 20/5, ThS – Bác sĩ Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm – Thần kinh, Bệnh viện Nhi Đồng 1 cho biết, hiện nay khoa mình đang điều trị cho rất nhiều bệnh nhi viêm màng não, viêm não…

“Thường trẻ bị viêm não, viêm màng não đã nằm viện thì tình trạng khá nặng. Chúng tôi đang có tới 40 ca viêm não và viêm màng não. Viêm não khoảng 12 ca. Trong đó, 8 trường hợp nghiêm trọng phải thở máy” – bác sĩ Khanh nói.

Như vậy, bệnh viêm não, viêm màng não tại khoa Nhiễm – thần kinh, Bệnh viện Nhi Đồng 1 nhiều hơn cùng kỳ năm trước khoảng 25%. Mới bắt đầu vào hè, thời tiết nắng nóng oi bức sẽ còn kéo dài, dự tính số lượng trẻ mắc bệnh có thể gia tăng thêm.

Bác sĩ Khanh lưu ý phụ huynh, trong điều kiện thời tiết oi bức không nên cho trẻ hoạt động quá sức, phải uống đủ nước. Có thể phòng tránh một phần bằng cách cho bé chích ngừa viêm não Nhật Bản.

Khi bị viêm não, viêm màng não bắt buộc phải nhập viện để điều trị chống co giật, hôn mê, dùng kháng sinh theo phác đồ. Thời gian nằm viện của một ca viêm màng não ít nhất 10 ngày.

Tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, Ths – Bác sĩ Trần Thị Thu Loan, Trưởng khoa Hô hấp cho biết, tuy số lượng trẻ nhập viện không tăng nhưng tình trạng bệnh lại rất nặng.

“Cùng thời điểm này, năm trước ca bệnh hô hấp nặng nhập viện chiếm khoảng 10% thì nay lên đến trên 20%. Hiện khoa tôi đang cấp cứu cho 20 bé nguy kịch, chủ yếu là viêm phổi.”, bác sĩ Loan chia sẻ.

Những đối tượng dễ bị nhiễm bệnh hô hấp và trở nặng rất nhanh là trẻ em suy dinh dưỡng, sinh non, hoặc có bệnh lý đi kèm.

Nguyên nhân gây bệnh hô hấp đa phần do vi trùng chứ không phải siêu vi như mọi khi.

Ngoài bệnh hô hấp, viêm màng não, viêm não, các bác sĩ còn cảnh báo nguy cơ trẻ bị rối loạn tiêu hóa, ngộ độc thực phẩm vì đồ ăn khó bảo quản, nhanh ôi thiu hơn trong những ngày nắng nóng.

Tại Khoa Tiêu hóa của Bệnh viện Nhi Đồng 1 chật cứng bệnh nhi, hiện tượng nằm ghép vài bé/giường khó tránh khỏi.

Thậm chí, không chịu nổi nóng bức, ngột ngạt, phụ huynh bế con ra gốc cây, trải chiếu nằm dưới nền xi măng cho thoáng.

Hiện trung bình mỗi ngày, khoa Khám bệnh, Bệnh viện Nhi Đồng 1 khám cho từ 6500 – 7000 bệnh nhi.

Điều chưa biết về viêm màng não mô cầu

Đăng bài: Thứ tư, 6/5/2015

Viêm màng não do não mô cầu có thể rất nặng, diễn tiến nhanh, tử vong trong vòng 24 giờ. Chờ đợi triệu chứng điển hình như ban xuất huyết hay cứng cổ sẽ quá trễ.

Mới đây Bộ Y tế đưa ra thông báo về bệnh viêm màng não gây ra do não mô cầu. Vi khuẩn gây bệnh viêm màng não là Neisseria Meningitidis. Có hơn 13 nhóm nhỏ trong đó 6 nhóm gây bệnh chính là A, B, C, W135, X và Y. Bệnh cảnh thể hiện dưới 3 dạng khác nhau gồm viêm hầu họng đơn thuần, nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não mủ.

Bệnh lây truyền trực tiếp qua đường hô hấp do hít phải những giọt nhỏ dịch tiết mũi họng của người nhiễm bệnh và có thể bùng phát thành dịch. Bệnh cũng có thể lây gián tiếp qua tiếp xúc trên da hay qua đồ dùng, dụng cụ hàng ngày như ly, tách, điện thoại. Các môi trường tiếp xúc gần gũi như khu tập thể, khu cắm trại, trường học có nguy cơ gây lây truyền cao.

Trong điều kiện bình thường, khoảng 5-10% dân số mang vi khuẩn Neisseria Meningitidis ở vùng hầu họng nhưng không có biểu hiện bệnh lý. Trong số này có thể có chủng gây bệnh hoặc chủng lành tính. Tuy người mang khuẩn không có biểu hiện bệnh lý nhưng trong một số trường hợp, việc lây nhiễm vi khuẩn này sang người khác có thể là nguyên nhân khởi phát bệnh. Việc lây truyền không thật sự dễ dàng trên thực tế. Chỉ có khoảng 3-4% người sống chung nhà với bệnh nhân nhiễm não mô cầu bị nhiễm thứ phát. Tuy nhiên, nếu ca bệnh đã được khẳng định thì việc phòng ngừa bằng thuốc cần được tiến hành ngay trên người có tiếp xúc với bệnh nhân trong vòng vài ngày đầu sau khi phát bệnh.

Phòng ngừa bằng kháng sinh chỉ có hiệu quả trong những ngày đầu tiên bị phơi nhiễm. Có thể dùng Ciprofloxacin 500 mg liều duy nhất hoặc Azithromycine 10 mg/kg (tối đa 500 mg) liều duy nhất. Sau 14 ngày, phòng ngừa bằng kháng sinh trở nên vô hiệu hoặc vô ích.

Các loại văcxin chỉ giúp phòng ngừa khoảng 85-90% trường hợp, chưa kể đến phức tạp trong chọn lựa các loại phân nhóm để sử dụng. Trong khi đang có dịch, việc chú ý đến các biện pháp vệ sinh cá nhân cũng tỏ ra hữu hiệu để phòng ngừa lây gián tiếp.

– Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước sát khuẩn.

– Súc miệng, họng bằng các dung dịch sát khuẩn mũi họng thông thường.

– Tránh chạm tay vào miệng, mũi và mắt.

– Tránh các tiếp xúc gần gũi với người khác, nếu có thể.

– Tránh ăn uống chung và sử dụng chung đồ dùng.

– Nếu bạn có triệu chứng nhiễm bệnh hãy đến ngay các cơ sở y tế.

Nếu ở các cơ sở y tế, việc sử dụng các dung dịch khử khuẩn tay trước và sau tiếp xúc với mỗi ca bệnh giúp hạn chế việc lây nhiễm từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác.

Vấn đề chích ngừa

Các bệnh nhiễm trùng có thể phòng ngừa bằng tiêm văcxin. Tuy nhiên, tiêm văcxin phù hợp lại là những vấn đề khác. Cho đến nay, chưa có loại văcxin nào đảm bảo gây miễn dịch đủ cùng lúc cho cả 6 loại vi khuẩn não mô cầu A, B, C, X, Y và W135. Việc chọn lựa văcxin thường dựa vào đặc điểm của vùng dịch để có loại phù hợp.

Trên thị trường hiện nay có loại văcxin nhị liên cho nhóm A, C như Mevac AC hoặc nhóm C và Y kèm Hib như MenHibrix. Ngoài ra, có loại tứ liên có tác dụng gây miễn dịch cho 4 nhóm A, C, Y và W-135, có thể là loại polysaccaride như Menomune, hoặc loại conjugate như Menactra, Menveo. Văcxin chuyên dành cho nhóm B chỉ mới được đưa vào sử dụng gần đây là Bexsero và Trumenba. Ở Việt Nam cũng có dạng văcxin kết hợp cho hai nhóm B và C: VA-Mengoc BC.

Một số lưu ý khi chích ngừa văcxin:

– Văcxin nhóm nào chỉ có thể phòng ngừa nhóm đó và không có tác dụng phòng ngừa chéo cho các nhóm khác. Ở vùng Đông Nam Á, nhóm A là tác nhân gây bệnh phổ biến nhất. Ở Việt Nam, một số ca gây bệnh nhóm B và C đã được ghi nhận.

– Khá nhiều thông tin ghi nhận không có văcxin phòng ngừa nhóm B. Điều này hiện nay không đúng vì văcxin nhóm B mới được đưa vào sử dụng gần đây. Trumenba được FDA Mỹ cấp phép vào tháng 10/2014 và Bexsero được cấp phép vào tháng 1. Ở Việt Nam, để đảm bảo phòng ngừa cả ba nhóm A, B, C, phải chủng ngừa cả hai loại văcxin.

– Văcxin não mô cầu A-C nằm trong lịch tiêm chủng quốc gia nhưng thuộc nhóm không bắt buộc và có thể phải trả chi phí thêm. Việc chủng ngừa thường được thực hiện lúc 18 tháng tuổi và lặp lại 3 năm một lần.

Do bệnh có thể xảy ra ở nhiều độ tuổi, việc chủng ngừa có thể áp dụng cho cả trẻ em lẫn người lớn.

Chẩn đoán sớm

Việc chẩn đoán và điều trị não mô cầu đã được Bộ Y tế ra văn bản hướng dẫn. Điều cần nhấn mạnh là bệnh lý gây ra do não mô cầu có thể rất nặng, diễn tiến nhanh và có thể đưa đến tử vong trong vòng 24 giờ sau khi phát bệnh. Do đó, chờ đợi những triệu chứng điển hình như ban xuất huyết hay cứng cổ có thể là quá trễ. Mặt khác, soi hoặc cấy ra vi khuẩn không giúp phân biệt được người mang khuẩn hay bệnh nhân thực sự. Do đó, chẩn đoán sớm chủ yếu dựa vào yếu tố dịch tể học và kinh nghiệm của bác sĩ lâm sàng.

Về phía bệnh nhân, cần biết là có khá nhiều trường hợp nhiễm siêu vi khác có biểu hiện tương tự nhưng diễn tiến và dự hậu khác rất nhiều. Trên nguyên tắc, khi một người có các biểu hiện sốt, nhức đầu, việc tự điều trị bằng các thuốc cảm sốt không ghi toa là hợp lý và bệnh nhân luôn được khuyên là đi khám bác sĩ nếu triệu chứng không thuyên giảm sau 48-72 giờ. Tuy nhiên, trong trường hợp nhiễm não mô cầu, đây có thể là khoảng thời gian vàng trong điều trị để ngăn ngừa các biến chứng nặng. Vì thế, không nên chần chừ khi có nghi vấn, đặc biệt khi có yếu tố nguy cơ tiếp xúc bệnh nhân trước đó.

Theo Bs Võ Xuân Quang – Phòng khám Đa khoa Quốc tế Yersin

Đã ngừa viêm não Nhật Bản vẫn có thể viêm màng não

Đăng bài: Thứ bảy, 5/7/2015

Viêm màng não và viêm não Nhật Bản là hai bệnh khác nhau, dù đã chích ngừa viêm não Nhật Bản thì trẻ vẫn có thể bị viêm màng não.

Nếu không cấp cứu kịp, bé có thể tử vong hoặc để lại di chứng như điếc, mù, động kinh, yếu liệt tay chân…

Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP HCM, hiện tiếp nhận điều trị 4 bệnh nhi viêm màng não là hai cặp anh em. Đây là lần đầu khoa tiếp nhận hai đôi anh em ở cùng nhà cùng bị viêm màng não. Trường hợp này khá hiếm vì viêm màng não không giống sởi, thủy đậu…, không thể lây cùng nhau trong một gia đình, vì thế phải có nguồn lây đặc biệt. Căn cứ vào dịch tễ và triệu chứng thì rất có thể các bé bị viêm não do virus. Các bác sĩ đang lấy mẫu xét nghiệm để xác định tác nhân gây bệnh.

Bác sĩ Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP HCM) cho biết, điều quan trọng phụ huynh cần biết là viêm màng não và viêm não Nhật Bản là hai bệnh khác nhau. Dù đã chích ngừa viêm não Nhật Bản thì trẻ vẫn có thể bị viêm màng não và dù đã chích ngừa HIB thì trẻ vẫn có thể bị viêm màng não vì viêm màng não có thể do nhiều loại vi trùng và siêu vi trùng gây ra.

Theo bác sĩ Khanh, viêm màng não là bệnh viêm nhiễm của màng não, nguyên nhân gây bệnh có thể là vi trùng hay siêu vi trùng. Các vi trùng hay siêu vi trùng gây bệnh này thường từ vùng tai mũi họng bị viêm nhiễm đi vào màng não và gây viêm. Bệnh thường gặp ở trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi, nhưng trẻ lớn và người lớn cũng có thể mắc.

Bệnh có thể gặp quanh năm, hay gặp nhiều sau những đợt dịch cảm cúm. Viêm màng não là loại bệnh nặng cần được điều trị cấp cứu, nếu không hoặc điều trị trễ bệnh có thể gây tử vong hay để lại di chứng như điếc, mù lòa, động kinh, yếu liệt tay chân hay nặng hơn trẻ không còn nhận biết được người thân dù đã điều trị khỏi bệnh. Nếu điều trị kịp thời trẻ sẽ khỏi bệnh và hoàn toàn bình thường.

Dấu hiệu của bệnh viêm màng não có thể xuất hiện rất nhanh ngay trong ngày đầu tiên của bệnh hay xuất hiện sau một vài ngày sốt, ho, sổ mũi bằng các triệu chứng như sau:

– Trẻ lớn: sốt cao, than đau đầu, đau gáy, ăn kém, nôn ói, cổ cứng.

– Trẻ nhỏ: sốt cao, bỏ bú, biếng chơi, ngủ nhiều, nôn ói, cổ cứng, trẻ còn thóp có thể thấy thóp phồng căng.

– Riêng trẻ dưới 3 tháng tuổi có thể không sốt mà chỉ có biểu hiện bỏ bú, khóc thét hay ngủ nhiều.

– Khi nặng hơn trẻ sẽ bị động kinh, co giật, li bì, hôn mê.

Các triệu chứng trên sẽ xuất hiện ngày càng nặng hơn nếu không được điều trị.

Diễn tiến của bệnh tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. Nếu nguyên nhân là vi trùng bệnh sẽ gây tử vong hay để lại di chứng nặng khi trẻ không được điều trị kịp thời, còn nếu nguyên nhân là siêu vi trùng thì đa số trẻ sẽ tự khỏi cũng như các trường hợp nhiễm siêu vi trùng khác (như nhiễm siêu vi trùng đường hô hấp gây ra cảm cúm, ho, sổ mũi; nhiễm siêu vi trùng đường tiêu hóa gây ra tiêu chảy, ói).

Bệnh viêm màng não dù do nguyên nhân vi trùng hay siêu vi trùng đều cần điều trị và theo dõi tại bệnh viện để phát hiện và điều trị kịp thời các biến chứng. Ngoài ra, để có thể biết được viêm màng não là do vi trùng hay do siêu vi trùng thì cần phải làm những xét nghiệm, đặc biệt là xét nghiệm nước màng não (nước não tủy) và theo dõi cẩn thận tại bệnh viện. Một số phụ huynh không đồng ý cho bác sĩ lấy nước màng não xét nghiệm có thể gây chậm trễ cho việc chẩn đoán bệnh.

Để điều trị khỏi và không có di chứng một trẻ mắc bệnh viêm màng não do vi trùng (còn gọi là viêm màng não mủ) thì cần phải cho trẻ nhập viện sớm, sử dụng kháng sinh mạnh và phải nằm viện nhiều ngày, trong khi viêm màng não do siêu vi trùng thì không cần thiết phải điều trị kháng sinh và thời gian theo dõi điều trị tại bệnh viện cũng chỉ kéo dài từ 3 đến 5 ngày.

Để phát hiện kịp thời bệnh viêm màng não mủ phụ huynh nên mang trẻ đến bác sĩ khám khi có các dấu hiệu nghi ngờ như: sốt cao, nôn ói, đau đầu, bỏ ăn, bỏ bú, biếng chơi, thóp phồng và cần mang trẻ đến bệnh viện ngay khi có các dấu hiệu bệnh nặng như: co giật, li bì, hôn mê.

Bác sĩ Khanh khuyến cáo, đối với trẻ có triệu chứng nghi ngờ viêm màng não mà chưa thể đến khám được thì việc điều trị tại nhà chủ yếu là hạ sốt bằng Paracetamol và quan trọng nhất là theo dõi tình trạng bệnh của trẻ, nếu trẻ bị viêm màng não thì các triệu chứng sốt, nôn ói, đau đầu, biếng ăn, biếng chơi sẽ diễn biến ngày càng nặng hơn. Do đó khi thấy các triệu chứng trên không giảm sau một ngày hay mỗi lúc mỗi nặng hơn thì nên mang trẻ đến bệnh viện ngay.

Vì bệnh viêm màng não là bệnh rất nguy hiểm và điều trị rất tốn kém nên việc phòng bệnh là rất quan trọng. Để phòng ngừa bệnh viêm màng não nên giữ ấm cho trẻ, chăm sóc tốt trẻ những lúc thời tiết thay đổi và nhất là lúc có dịch cảm cúm xảy ra. Cần điều trị kịp thời, tránh để trẻ bị viêm mũi họng kéo dài cũng như cần điều trị ngay khi trẻ bị chảy mủ tai.

Khi có điều kiện nên cho trẻ chích ngừa văcxin phòng viêm màng não do HIB (Hémophillus influenza type B). Đây là loại vi trùng gây trên 70% các trường hợp viêm màng não ở trẻ em. Có thể bắt đầu chích ngừa cho trẻ lúc 2-3 tháng tuổi hay bất kỳ thời điểm nào ở trẻ dưới 5 tuổi theo lịch sau:

– Trẻ từ 2 tháng đến 6 tháng: Chích  3 liều mỗi liều cách nhau một tháng, có thể chích nhắc lại lúc 18 tháng.

– Trẻ từ 7 tháng đến 11 tháng: Chích  2 liều cách nhau một tháng, có thể chích  nhắc lại lúc 18 tháng.

– Trẻ từ 12 tháng đến 14 tháng: Chích một liều và chích nhắc lại một liều lúc 18 tháng.

– Trẻ 15 đến 59 tháng: Chích một liều duy nhất.

Trẻ trên 5 tuổi không cần thiết phải chích ngừa loại văcxin này vì vi trùng này rất ít khi gây viêm màng não mủ ở trẻ trên 5 tuổi.

 

Leave a Reply